Cách quản lý chất lượng hàng hóa vật liệu xây dựng trên thị trường Việt Nam
Với phương thức thử nghiệm mẫu điển hình và đánh giá quy trình sản xuất; giám sát bằng việc thử nghiệm mẫu tại nơi sản xuất hoặc trên thị trường
Nhằm thay thế Quy chuẩn 16:2014/BXD, Bộ Xây dựng đang lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng (VLXD). Theo các chuyên gia, dự thảo sẽ góp phần quản lý chặt chẽ từ gốc về chủng loại, chất lượng… đối với các mặt hàng VLXD đang lưu thông trên thị trường Việt Nam.
thị trường vật liệu xây dựng
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm, hàng hóa VLXD sẽ quy định các yêu cầu kỹ thuật và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá VLXD thuộc nhóm 2 theo quy định tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được sản xuất trong nước, nhập khẩu và lưu thông trên thị trường Việt Nam.
Từ những quy định được nêu ra trong dự thảo, để được lưu thông trên thị trường Việt Nam, các sản phẩm, hàng hoá VLXD phải bảo đảm không gây mất an toàn trong quá trình vận chuyển, lưu giữ, bảo quản và sử dụng. Những tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu phải kê khai đúng chủng loại sản phẩm, hàng hoá VLXD phù hợp với danh mục các sản phẩm đã được quy định. Nếu chưa rõ, cần phối hợp với các tổ chức đánh giá sự phù hợp để thực hiện việc định danh chủng loại sản phẩm.
Ngoài ra, các sản phẩm, hàng hoá VLXD quy định tại Phần 2 khi lưu thông trên thị trường cũng cần phải có giấy chứng nhận và công bố hợp quy. Dấu hợp quy được sử dụng trực tiếp ngay trên sản phẩm hoặc trên bao gói, nhãn gắn hoặc trong chứng chỉ chất lượng, tài liệu kỹ thuật của sản phẩm.
Các quy định về chỉ định và công bố các tổ chức chứng nhận hợp quy sẽ được căn cứ vào sự đáp ứng yêu cầu về hệ thống quản lý, năng lực của các phòng thí nghiệm đã được quy định tại Nghị định số 62/2016/NĐ-CP và Thông tư số 09/2009/TT-BKHCN ngày 08/4/2009 của Bộ Khoa học và Công nghệ. Trên cơ sở đó, Bộ Xây dựng sẽ ra quyết định chỉ định các tổ chức chứng nhận hợp quy với sản phẩm và hàng hóa VLXD.
Tiếp đó, những thông tin cần thiết được công bố và đăng tải công khai trên trang thông tin điện tử của Bộ Xây dựng và địa phương, gồm: Danh sách các tổ chức, các chuyên gia thuộc tổ chức chứng nhận hợp quy đã được chỉ định; danh sách các tổ chức, các chuyên gia thuộc tổ chức chứng nhận hợp quy đã bị xử lý vi phạm về hoạt động chứng nhận hợp quy.
Để được chứng nhận là hợp quy và được công bố hợp quy, các sản phẩm, hàng hoá VLXD phải được công bố hợp quy phù hợp với các quy định nêu trong Phần 2 của Dự thảo dựa trên kết quả Chứng nhận hợp quy của các tổ chức đánh giá được Bộ Xây dựng chỉ định hoặc thừa nhận.
Việc đánh giá sự phù hợp cho các sản phẩm hàng hóa VLXD được thực hiện theo 3 phương thức. Phương thức thử nghiệm mẫu điển hình; hiêu lực Giấy chứng nhận hợp quy là 1 năm và thực hiện giám sát bằng việc thử nghiệm mẫu mỗi lần nhập khẩu. Phương thức này phù hợp cho các sản phẩm nhập khẩu, các sản phẩm được sản xuất bởi cơ sở có kinh nghiệm nước ngoài và cơ sở đã xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 hoặc tương đương.
Với phương thức thử nghiệm mẫu điển hình và đánh giá quy trình sản xuất; giám sát bằng việc thử nghiệm mẫu tại nơi sản xuất hoặc trên thị trường kết hợp đánh giá quy trình sản xuất thì Giấy chứng nhận hợp quy có hiệu lực là 3 năm. Việc giám sát mỗi năm thông qua việc thử nghiệm mẫu tại nơi sản xuất hoặc trên thị trường. Phương thức thứ 3 là phương thức thử nghiệm, đánh giá lô sản phẩm, hàng hóa, Giấy chứng nhận hợp quy có hiệu lực với giá trị của từng lô hàng.
Với nhiều điểm mới, các chuyên gia đánh giá, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm, hàng hóa VLXD sẽ là thước đo để đánh giá chuẩn về kỹ thuật, góp phần quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá VLXD với các sản phẩm đang lưu thông trên thị trường. Qua đó bảo đảm tính thực tế và phù hợp với yêu cầu của các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp.
Leave a Reply